Văn học - Literature - 文学
Các bạn đang truy cập vào forum YEUVANHOCVAN.FORUMVI.COM để trao đổi và thảo luận các vấn đề văn học trong trường THPT. Hãy đăng nhập để chúng tôi biết bạn là ai nhé

Join the forum, it's quick and easy

Văn học - Literature - 文学
Các bạn đang truy cập vào forum YEUVANHOCVAN.FORUMVI.COM để trao đổi và thảo luận các vấn đề văn học trong trường THPT. Hãy đăng nhập để chúng tôi biết bạn là ai nhé
Văn học - Literature - 文学
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Tư tưởng hành lạc và hành đạo trong thơ Nguyễn Công Trứ

Go down

Tư tưởng hành lạc và hành đạo trong thơ Nguyễn Công Trứ Empty Tư tưởng hành lạc và hành đạo trong thơ Nguyễn Công Trứ

Bài gửi by Gaquay Sat Sep 24, 2011 11:11 pm


Vấn đề con người cá nhân đã từ lâu trở thành đối tượng khảo sát của các nhà nghiên cứu văn học. Vấn đề đặt ra ở đây là có hay không con người cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam ? Trước đây người ta cho rằng không có con người cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam bởi vì họ cho rằng văn chương thời đó “đi theo lối khắc kỉ, qui phạm, cung đình” (Theo Nguyễn Hữu Sơn). Quan niệm như vậy có quá qui chụp, cảm tính mà thiếu sự bình tĩnh suy xét không?

Chúng ta biết, con người là chủ thể sáng tạo, nhưng đồng thời cũng là đối tượng để nhận thức và phản ánh của văn học. Bất cứ một nền văn học nào, dù hiện đại hay trung đại cũng lấy con người làm đối tượng để chủ yếu. Cá nhân bao giờ cũng là thực thể đầu tiên làm nên mọi hình thức cộng đồng xã hội. Xã hội sẽ trở thành xã hội khi có sự tham gia của từng cá nhân, cá thể. Cá nhân trước hết là một thực thể tự nhiên, sinh học trước khi là một thực thể mang tính xã hội. Nói đến sự sống nhân loại, trước hết là nói đến sự sống của từng cá nhân. Vì thế cái tôi cá nhân có ý nghĩa thiêng liêng trong sự sống của nhân loại qua mọi thời đại, mọi loại hình nghệ thuật và “Mỗi thời đại đều có lối cảm xúc tế nhị hay cao siêu, hay tự do của nó. Tóm lại mỗi thời đại đều có lối quan niệm về thế giới riêng của nó. Cái này được biểu hiện rõ ràng và hoàn toàn nhất vì tiếng nói là dùng để diễn đạt tất cả những gì diễn ra trong tinh thần con người” (G.F.Heghen - Dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn, Vấn đề con người cá nhân trong văn học cổ - Nhìn từ góc độ lí thuyết).

Vậy trong văn học cổ trung đại Việt Nam có sự xuất hiện của con người cá nhân hay không? Để trả lời cho vấn đề này Nguyễn Hữu Sơn khẳng định: “Có sự xuất hiện con người cá nhân trong văn học cổ trung đại, và có sự tiếp nối trong loại hình văn học viết nói chung, với những mức độ đậm nhạt khác nhau…”

Việc tìm về với cái tôi tác giả, con người cá nhân trong văn học trung đại là một đề tài khá hấp dẫn đối với những người nghiên cứu văn học, đặc biệt là những giáo viên dạy văn trong nhà trường phổ thông. Với giới hạn một bài tiểu luận, không cho phép đi sâu và rộng, chúng tôi chỉ đi vào một khía cạnh nhỏ trong cái tôi rộng lớn và phức tạp của cái tôi cá nhân trong văn học trung đại: “Con người tài tử trong thơ Nguyễn Công Trứ”

Để giải quyết vấn đề, trên cơ sở thu thập, tiếp thu có sáng tạo những công trình nghiên cứu có trước, kết hợp vào nghiên cứu trên văn bản các tác phẩm thơ, đặc biệt là thơ Nôm của Nguyễn Công Trứ để rút ra những đặc điểm riêng về con người cá nhân nhà thơ qua thơ ông.

Giải quyết được điều này, tôi mong rằng, dù là nhỏ, đề tài cũng góp vào tiếng nói khẳng định cho sự tồn tại của con người cá nhân trong văn học trung đại, đặc biệt là trong giai đoạn cuối của văn học trung đại, thời kì mầm mống để chuẩn bị cho quá trình hiện đại hoá văn học đầu thế kỉ XX

NỘI DUNG

~*~

I. Nguyễn Công Trứ (1778-1858) tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, thuở nhỏ là người rất chăm học, lớn lên khi cục diện chính trị trong nước dần dần ngã ngũ: cha ông tuy là một cựu thần nhà Lê, không hợp tác với Tây Sơn, thậm chí có lúc còn hưởng ứng chiếu Cần Vương phò Lê, song về cơ bản chỉ là một viên quan cấp thấp, tìm cách xử sự theo lối ẩn dật truyền thống. Sự kiện 1802, khi Gia Long ra Bắc lần đầu, ông đón dâng “Thái bình thập sách” là chứng cứ đầu tiên ông có khát vọng sự nghiệp lớn. Nhưng lần lửa mãi đến 1819, ông mới thi đỗ giải nguyên, rồi năm 42 tuổi ông mới bắt đầu tham gia vào chính trường. Trong lịch sử Việt Nam những người có phẩm chất, tài năng trên nhiều lĩnh vực khác nhau và kịp thể hiện nó ra thành sự nghiệp, ra thành thực tế, quả là quá ít ỏi. Tuy đỗ đạt muộn, ông làm quan đến gần ba mươi năm, giữ nhiều chức vụ rất khác nhau, hoạn lộ cực kì sóng gió, nhưng trên cương vị nào ông cũng để lại những kết quả, những thành tựu, không chỉ đối với triều đình nhà Nguyễn mà còn đối với sự phát triển của lịch sử xã hội Việt nam. Vừa là một nhà thơ mà sáng tác văn chương đi vào lịch sử văn học như một trong dăm ba tác giả quan trọng nhất của nửa đầu thế kỉ XIX. Ông xuất chính theo nghạch văn- quan , nhưng chẳng bao lâu đã trở thành một võ tướng, có nhiều chiến tích đáng trân trọng. Là một viên quan được cai trị trấn nhậm ở những vùng gai góc nhất, nhưng ông cũng được cử đi làm chủ khảo những kì thi ở những vùng có tiếng văn vật. Sự nghiệp đặc biệt để lại công lao to lớn của ông trong lịch sử dân tộc được tạo ra khi ông được trao chức quan Dinh điền sứ, tổ chức khai hoang lấn biển lập ra hẳn hai huyện Tiên Sơn, Tiền Hải . Giải pháp xử lý toàn cục của ông ở hai huyện này cho đến nay vẫn được đánh giá là tối ưu. Đến cả lối sống, cả phương thức ứng xử của ông trong các tình huống cũng thật khác người, hằn sâu trong kí ức mọi người như những giai thoại thú vị.

Chính bản chất con người và thời đại Nguyễn Công Trứ sống đã sinh ra hình ảnh con người nhà nho tài tử Nguyễn Công Trứ trong thơ văn của ông. Trong thời gian gần đây, cách đánh giá của giới nghiên cứu văn học về Nguyễn Công Trứ và thơ văn của ông có nhiều đổi mới. Đối với mảng thơ thể hiện tư tưởng hành lạc trong sáng tác của ông, sự phủ định hay đánh giá khe khắt đã dần nhường chỗ cho sự khẳng định dựa trên những phân tích sâu sắc vể giá trị nhân bản và tính thẩm mỹ của nó. Quả thực , khi biết đặt sáng tác của Nguyễn Công



Trứ trong một bối cảnh văn học văn hoá rộng hơn , ta sẽ thấy thái độ đề cao thú chơi của ông có một ý nghĩa tích cực, vượt lên cái khuôn khổ đạo lí “khắc kỉ, phục lễ” khô cứng và hẹp hòi . Không chỉ thế người ta cũng nhận thấy sự nhất quán của Nguyễn Công Trứ ở cả hai mảng thơ “hành đạo” và “hành lạc”. “Té ra cả “hành đạo” lẫn “hành lạc”, cả sự hưởng thú vui lẫn việc thực hiện sứ mệnh của người anh hùng trên đời đều là sự chơi, cuộc chơi. Trong cuộc chơi kéo dài suốt đời ấy, con người phải luôn luôn dốc hết sức mình mưu cầu thắng lợi, vững tin rằng cuộc chơi có ý nghĩa, đồng thời biết ứng phó bình thản, cao tay với những rủi may do “hoá nhi đa hí lộng” đem lại (người chơi với trời đất thì trời đất cũng chơi lại với người!). Bậc anh hùng trượng phu vì vậy vừa khao khát công danh, vừa “vô cầu”, “yên sở ngộ”, vừa hăng say nhập thế, vừa biết thanh thản xuất thế, vừa biết “hành” vừa biết “tàng”, coi hành tàng thực chất không gì khác nhau (“hành tàng bất nhị kì quan”). Hiển vinh hay bị sỉ nhục, thành đạt hay thất bại - người trượng phu đều chấp nhận một cách thản nhiên”. (Phạm Vĩnh Cư. Thơ “hành lạc” của Nguyễn Công Trứ và dòng thơ “an lạc” thế giới. Tạp chí văn học, số 7.1995.)

Nguyễn Công trứ sáng tác rất nhiều, chủ yếu là thơ văn chữ Nôm. Thơ văn Nguyễn Công Trứ cho thấy rõ phong cách độc đáo của ông, một con người giàu năng lực, có cốt cách tài tử phong lưu, biết sống và dám sống, không ngần ngại khẳng định cá tính của mình.

II. Nổi bật trên những trang viết của Nguyễn Công Trứ là hình ảnh con người nhà Nho tài tử: tài tử trong hành đạo và tài tử trong hành lạc.

1. Chữ “hành đạo” theo quan niệm của Nho giáo là sự ra giúp đời, làm bổn phận với nước, với dân. Cái triết thuyết “hành đạo” được thể hiện rõ nét trong thơ Nguyễn Công Trứ. Quan niệm này được bao trùm bởi một ý niệm khác mà ông gọi bằng những chữ: “chí khí anh hùng”, “chí nam nhi”, “nợ tang bồng”, “nợ nam nhi”.

Nguyễn Công Trứ cầm bút vào giai đoạn đầu của triều đại nhà Nguyễn, một triều đại hết sức chuyên chế và phản động. Do được cũng cố và thành lập sau những năm chiến tranh liên miên, triều đại nhà Nguyễn có điều kiện để mị dân, tạo sự ổn định giả tạo cho đất nước, xã hội. Tình hình này đã gây niềm hi vọng cho một số trí thức, nhất là những người xuất thân từ tầng lớp Nho học lớp dưới, họ hăm hở đi học, đi thi để ra làm quan, những mong đem tài đức của mình xây dựng đất nước. Nguyễn Công Trứ là một trong những số ấy. Ngay từ thuở hàn vi, đã nhiều lần ông bày tỏ khát vọng, cái lí tưởng sống, cái chí khí của một đấng nam tử “bất bình thường” của mình. Trong thơ ông ta luôn thấy hình ảnh một con người với lẽ sống hăm hở, một nhân sinh quan tích cực. Là một trí thức thành danh, là một nhà Nho được đào tạo bài bản, được hấp thu một nền học thuyết Nho giáo chính thống, thế nhưng ông không bị ràng buộc bởi những qui định hà khắc của những thứ lễ giáo ấy, mà trái lại, trong thơ văn, nhất là trong mảng thơ Nôm của ông thể hiện rất rõ hình ảnh con người nhà thơ, con người tài tử, có phong cách sống tuỳ hứng, tuỳ thích, như ông đã từng tuyên bố:

Sách có chữ “Nhân sinh thích chí”

Đem ngàn vàng chác lấy tiếng cười

(Cầm kì thi tửu)
Cái cốt cách tài tử khác người của Nguyễn Công Trứ thể hiện ngay ở cái chí hướng muốn lập công danh, thực hiện lí tưởng người anh hùng. Nguyễn Công Trứ là con người của niềm say mê, sôi nổi, của hoài bão lớn lao trên con đường hành đạo. Trong ông luôn đau đáu nổi niềm “chí nam nhi”, “nợ tang bồng”, “nợ công danh”, “gánh trung hiếu”,… Ông là người tận tâm với công việc, trung thành với chế độ phong kiến, hết lòng vì nước, vì dân. Thế nhưng Nguyễn Công Trứ lại có cá tính mạnh mẽ, không chịu sống bình lặng trong khuôn phép của đạo lí phong kiến mà luôn luôn vươn tới khẳng định bản ngã, vượt lên thế tục, ngông nghênh, ngất ngưỡng giữa cuộc đời với những triết lí nhân sinh khá cực đoan.

Thời trai trẻ sống trong chật vật cảnh nghèo lại thêm lận đận trong thi cử, thế nhưng Nguyễn Công Trứ lúc nào cũng hăm hở công danh sự nghiệp. Trong nhiều bài thơ ông thể hiện rõ cái quyết tâm đó cùng với một niềm tin mạnh mẽ của một kẻ sĩ trước lúc vào hội công danh:

Đi không há lẽ trở về không

Cái nợ cầm thư phải trả xong

…Đã mang tiếng ở tong trời đất

Phải có danh gì với núi sông

(Đi thi tự vịnh)

Một lẽ sống đẹp, một mục đích sống cao cả. Những câu thơ trên được mến mộ, được truyền tụng như một châm ngôn về hoài bão công danh của người quân tử mưu cầu chí lớn.

Với Nguyễn Công Trứ, kẻ sĩ đi thi phải có danh, danh trước hết là đỗ đạt, được ghi tên vào bảng vàng quý giá, được vinh quy bái tổ “võng anh đi trước võng nàng theo sau”. Muốn vậy phải tài năng đích thực giúp nước cứu đời, cứu dân. Có danh là có tài kinh bang tế thế, trị loạn an dân làm cho dân giàu nước mạnh. Kẻ tầm thường không có danh mà chỉ có lợi. Kẻ sĩ chân chính có tài năng, có lẽ sống, có hoài bão trang trải nợ cầm thư, nợ tang bồng thì mới có danh tiếng:

Nhân sinh thế thượng thuỳ vô nghệ

Lưu đắc đan tâm chiến hãn thanh.

(Chí anh hùng)

Hơn ai hết Nguyễn Công Trứ là người ý thức rất rõ về bổn phận của kẻ sĩ. Đã nhiều lần trong thơ ông hùng hồn khẳng định trách nhiệm ấy.

Vũ trụ nội mạc phi phận sự

(Bài ca ngất ngưởng)

Vũ trụ chức phận nội

(Gánh trung hiếu)

Vũ trụ dai ngộ phận sự

(Nợ tang bồng)

Với những lời tuyên bố ấy, Nguyễn công Trứ đã khẳng định sự tồn tại, vị trí quan trọng của chính mình trong cõi trời đất. Ý thức về cái tôi cá nhân khá rõ. Ông còn nói:

Thiên phú ngôn, địa tải ngô

Thiên địa sinh ngô nghuyên hữu ý

( Trời che ta, đất chở ta

Trời đất sinh ra ta là có ý )

Người chí sĩ phải coi mọi việc trong trời đất đều là việc của mình, phải ôm mọi việc lớn của non sông, phải cống hiến hết mình cho đời. Khát vọng thành danh khẳng định phận sự trong trời đất là một lý tưởng đẹp đẽ, hào hùng. Làm nên những ước vọng cao cả và những ý định siêu phàm. Bởi thế, kẻ sĩ một khi đã mang lấy cái danh hiệu cao quý ấy phải đeo đuổi và làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của mình :

Nợ tang bồng vay trả trả vay

( Chí làm trai )

Khi cơ hội đến kẻ sĩ phải ra sức làm nên những chiến công hiển hách lẫy lừng :

Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể

(Chí làm trai)

Phải dồn hết sức lực tài năng để thi thố khẳng định mình :

Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ

Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.



Chí những toan sẻ núi lấp sông

Làm nên đắng anh hùng đâu đấy tỏ

(Chí làm trai)

Bởi thế con người kẻ sĩ phải có tư thế lớn lao sánh cùng trời đất :

Có trung hiếu nên đứng trên trời đất

Không công danh thà nát với cỏ cây

(Gánh trung hiếu)

Thế nhưng, trung thành với chế độ phong kiến bao nhiêu thì Nguyễn Công Trứ lại muốn đi ngược lại những lễ giáo phong kiến trói buộc con người bấy nhiêu. Nếu sách thánh hiền xưa ca ngợi đạo nghĩa, xem nhẹ sở thích cá nhân, theo kiểu « người quân tử làm việc đời không có gì là thích hay không thích, hợp với nghĩa thì làm» (Lý Nhân) thì ngược lại Nguyễn Công Trứ thường ngâm đi ngâm lại câu « nhân sinh quý thích chí» , và sở thích cá nhân của ông là xem cuộc đời này là một sự thi thố tài năng. Và nếu như sách thánh hiền xưa đề cao, ca ngợi người quân tử ở sự chăm lo đạo đức cao thượng mà hạ thấp kẻ tiểu nhân ở chỗ chỉ lo ăn sung mặc sướng thì Nguyễn Công Trứ lại xem trọng cả hai. Nếu người xưa chủ trương sống khổ hạnh theo kiểu an bần lạc đạo, khắc kỉ phục lễ, trên kính dưới nhường thì Nguyễn Công Trứ lại xem cuộc đời này là một cuộc chơi. Có thể nói rằng đằng sau ngôn ngữ mang hình thức nhà Nho kia, Nguyễn Công Trứ đã gửi gắm vào đấy cái ý thức cá nhân mới mang quan niệm nhân sinh tích cực (cái mà lâu nay người ta còn bàn cãi). Bởi thế Nguyễn Công Trứ đã từng phát biểu một chách thẳng thắn rằng :

Thuỳ năng thế thượng vong danh lợi

Tiện thị nhân gian nhất hóa công

( Trên đời ai quên được danh lợi, hẳn chỉ có mình ông trời )

Ông lớn tiếng tự hứa cái điều mà không ai có thể dám nếu không đủ tài năng sự nghiệp hiển hách.

Xếp kiếm cung cầm thơ vào một gánh

Làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh

Không chỉ thế ông còn hứa cả việc :

Giắt lỏng giang sơn vào nửa túi

Rót nghiêng phong nghuyệt cạn lưng bầu

(Hành tàng)

Coi cuộc đời này như một túi tiền hữu hạn mà mãi đến năm 42 tuổi vẫn chưa thành đạt gì, «Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi . Vạn sáu tiêu nhăng hết cả rồi», còn quá nhiều việc phải làm, nên ông :

Nhắn con tạo hoá xoay thời lại

Để khách tang bồng rộng đất chơi

Để quyết trả cho xong nợ tang bồng , và sự thục thì Nguyễn Công Trứ cũng đã tự hào vì sự nghiệp công lao của mình. Ông là một tài năng đích thực ! Bởi «Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông. Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưỡng. Lúc bình Tây cờ đại tướng, Có khi về Phủ Doãn Thừa Thiên».

Có điều gì mà ông ngại, có điều gì mà ông không làm được !

Như vậy Nguyễn Công Trứ là nhà Nho hành đạo. Suốt đời theo đuổi lí tưởng làm người anh hùng với khát vọng kinh bang tế thế, là người trí túc đa tài, đã từng «Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ», nhưng đằng sau đấy ta còn thấy cái tôi tài tử ngông ngạo sống ngoài vòng cương toả của lễ giáo phong kiến bó buộc. Nguyễn Công Trứ không chỉ có danh. Bởi ông biết hư danh bao giờ cũng đi với chữ nhục «Dưới công danh đeo khổ nhục» (Nguyễn Trãi). Biết thế nên ông lại nói « Làm trai chỉ sợ áng công danh», có điều Nguyễn Công Trứ xem vinh nhục là thường «Cái vinh nhục, nhục vinh là đắp đổi ». Về điều này Nguyễn Công Trứ đã vượt lên trên thói đời thường tình, và vì thế ông có thể tự hào về mình :

Không Phật không Tiên không vướng tục

Chẳng Trái Nhạc cũng vào phường Hàn Phú

(Bài ca ngất ngưỡng)

Cái tư thế ngông ngạo, bất chấp mọi luật lệ, thế tục, dư luận của người đời đã được Nguyễn Công Trứ xem như một triết lí sống ngay cả khi ông còn làm quan trong lồng của những thứ lễ giáo phong kiến.

2. Do vậy, ngoài khát vọng công danh, khẳng định bản ngã cái tôi, Nguyễn Công Trứ còn chủ trương hưởng lạc. Không chỉ tài tử trong hành đạo mà còn tài tử trong hành lạc.

Việc khẳng định nhu cầu hưởng thụ của con người, nâng nó lên thành một triết lí sống, có sức thu phục nhân tâm thì không mấy ai làm được như Nguyễn Công Trứ. Đây chính là điểm mạnh, điểm độc đáo của ông. Và chính nơi đây Nguyễn Công Trứ đã gặp gỡ giao tiếp mãnh liệt với thời đại ngày nay, con người hôm nay, với lí tưởng nhân sinh mà con người Việt Nam và loài người đang quan tâm.

Trước đây có người cho rằng cái triết lí hành lạc của Nguyễn Công Trứ mang một nội dung tiêu cực, đồi trụy.Nhận định như trên liệu có quá khắt khe với Nguyễn Công Trứ không ? Bởi như vậy sẽ mâu thuẩn với những giá trị nghệ thuật, giá trị thẩm mĩ trong những bài thơ hành lạc của ông, vốn được xem là rất hay, được các bậc trí thức thượng lưu lâu nay tán tụng. Vậy đâu là giá trị thực của thơ hành lạc Nguyễn Công Trứ ?

Ai cũng thừa nhận trong thơ hành lạc của Nguyễn Công Trứ có yếu tố hiếu sắc, nhục dục, thế nhưng những yếu tố này được thể hiện rất tế nhị, được che đậy rất nghệ thuật. Ở Nguyễn Công Trứ, cái nhục dục không bao giờ biến thành cái dâm dục, nó được kiềm chế và chi phối bởi những yếu tố có tính chất văn hoá tinh thần thanh lịch, chất hào hoa tài tử phong nhã, thi hứng thẩm mĩ rành sõi, tinh vi, không chấp nhận tất cả những cái gì là thô bỉ, xô bồ, là xác thịt trần trụi :

Chơi cho lịch mới là chơi

Chơi cho đài các, cho người biết tay

Tài tình dễ mấy xưa nay !

(Cầm kì thi tửu)

Đọc thơ hành lạc, thơ nói về thú uống rượu, thú đánh tổ tôm của Nguyễn Công Trứ, người đọc dể nhận ra cái khẩu khí hào mại trước cái cảm hứng anh hùng không giả tạo :

Cuộc hành lạc vẫy vùng cho phỉ chí

Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy

Nếu không chơi thiệt ấy ai bù !

(Chơi xuân kẻo hết xuân đi)

Chữ chơi ở đây không nên hiểu theo nghĩa dung tục, là lối ăn chơi trác táng, bạt mạng. Cuộc chơi, tiếng cười ở đây mang màu sắc hội hè rõ ràng, chúng khẳng định mình một cách quyết liệt trước hiện thực cuộc sống thường nhật có sức mạnh đè bẹp trước những trí khôn thông thường, trước lối sống ki bo cóp nhặt của người đời, trước lễ giáo, tục lệ nghiêm trang chán ngắt trong xã hội. Cho nên cần phải có một cuộc sống khác :

Nhân sinh bất hành lạc

Thiên tuế diệc vi thương

Con người sống ở trên đời cần chơi và phải biết chơi. Nâng tư tưởng hành lạc lên thành triết lí sống. Nguyễn Công Trứ biểu lộ tính nhân bản rất sâu sắc và anh minh, và tỏ ra đồng thanh tương ý, đồng khí tương cầu một cách lạ lùng với thời đại ngày nay khi con người càng ngày càng cần cảm thấy có nhu cầu thể

hiện mình như một sinh vật tinh khôn, sinh vật chế tạo... nhưng còn là sinh vật chơi.

Nếu công danh là cách tự khẳng định cá nhân trong bất hủ với vô hạn thời gian thì hưởng lạc là việc tự khẳng định mình trong thời gian hữu hạn của đời người. Nguyễn Công Trứ khi nói đến đời người không dùng chữ « trăm năm» như mọi người mà nói « ba vạn sáu nghìn ngày» là rất thâm thuý, sự hưởng lạc phải tính từng ngày :

Trăm năm trong cõi người ta

Xoá sổ tính ngày chơi đà được mấy

(Trong trần mấy mặt làng chơi)

Muốn thực hiện chí công danh thì phải đợi thời, phải vào “lồng”, còn hưởng lạc thì tuỳ mình, tự do, tự tại.

Chen chúc lợi danh đà chán ngắt

Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao!

Và hưởng lạc chính là phạm vi thể hiện sự tài tình: cầm, kì, thi, tửu, tùng, cúc, phong, nguyệt,…

Vấn đề là sự khẳng định cá nhân, nhưng nếu trong chốn quan trường hoạn lộ là tu thân thì ở đây là sự phô diễn tài tình:

Đàn năm cung réo rắt tính tình đây

Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó

Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ

Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà

(Cầm ki thi tửu)

Lối sống hưởng thụ cũng là một cách tự khẳng định, một sự đối lập với xã hội phong kiến, với nhiều chế định khắt khe, và tất nhiên con là một kiểu chơi ngông nữa khi không chỉ với cầm kì thi tửu mà còn có cả giai nhân, không chỉ một mà “đủng đỉnh một đôi dì”. Lên cửa thiền hay chuyện “Lênh đênh một chiếc thuyền nan. Một cô thiếu nữ, một quan đại thần” đâu chỉ là chuyện ham sống, ham hưởng thụ của người tài tử. Đó là một kiểu ngất ngưỡng, ngất ngưỡng đến mức “Bụt cũng phải cười khì”, còn biết làm thế nào?

Cũng phải có tài mới dám vượt lên thói thường để chơi ngông, chơi ngông trong môi trường hưởng thụ, không chỉ để khoe tài mà còn để tìm tự do. Lại cũng là một cách ngạo thế cho thoả chí:

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưỡng

Kìa núi nọ phau phau mây trắng

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi

Gót tiên theo đủng đỉnh một đoi dì

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưỡng

(Bài ca ngất ngưỡng)

Nguyễn Công Trứ sống theo ý thích của mình, dù có khác người, trái đời cũng bất chấp thế luận, lúc cưỡi bò vàng ngất ngưỡng rong chơi, ông đeo mo cau vào đuôi bò với dụng ý rất ngông: che miệng thế gian. Lúc đến chốn thâm nghiêm như chùa chiền, miếu mạo, ông vẫn đem theo “đủng đỉnh một đôi dì”, lúc nghe hát ả đào ông say say, tỉnh tỉnh lắc lư theo nhịp trống phách. Nguyễn Công Trứ sống hết mình, ngông nghênh, ngất ngưỡng giữa cuộc đời không quan tâm đến phú quí hay bần hàn, được hay mất, khen hay chê:

Được mất dương dương người tái thượng

Khen chê phơi phới ngọn đông phong

(Bài ca ngất ngưỡng)

Tinh thần thao lược, tinh thần đua tài khoe sức, tinh thần thượng võ, mã thượng tiềm ẩn rất phong phú trong thơ Nguyễn Công Trứ. Cái chơi trong thơ ông không phải là sự phóng dục buông tuồng, ngược lại, nó đòi hỏi một sự làm chủ bản thân cao độ, sự hun đúc ý chí, mài dũa tài nghệ không ngơi. Trong sự chơi ấy, đằng sau cái say mê là sự tỉnh táo, đằng sau cái hăm hở là sự bình tĩnh, bên cạnh chí hiếu thăng là sự sẵn sàng chấp nhận sự thất bại, thái độ nhập cuộc nghiêm túc cực độ song hành với cái nhìn thanh thản, nhẹ nhõm, cười cợt đối với cuộc chơi.

Triết lí hành lạc trong thơ Nguyễn Công Trứ, xét về cốt lõi đồng nghĩa với một triết lí nhân sinh sâu rộng hơn đã nảy sinh và tồn tại hàng ngàn năm ở phương Đông cũng như ở phương Tây - triết lí “an lạc”, trong đó chữ “an” có ý nghĩa tinh thần, ý nghĩa chủ quan. Cái an hiểu theo nghĩa ấy là điều kiện tiên quyết để cho con người được hưởng cái “lạc”, tức là đạt được mục đích sống.

Như vậy hành lạc hay hành đạo, với người anh hùng Nguyễn Công Trứ đều là cuộc chơi mà ở đó người anh hùng dám chấp nhận tất cả, trách nhiệm lẫn sự vui, cả hai phải dung hoà. “Linh khâm bảo hợp thái hoà. Sạch không trần luỵ ấy là thần tiên” hay “Vào vòng cương toả chân không vướng. Tới cuộc trần ai áo chẳng hoen” là vì lẽ trên.



KẾT LUẬN

~*~

Thấm nhuần đến chân tơ kẻ tóc đạo trung hiếu Nho gia và ý thức rất rõ tài đức của mình, cố đem hết tài đức ấy cống hiến để làm nên sự nghiệp và danh tiếng để đời, là bản chất con người Nguyễn Công Trứ. Chí hướng và lòng nhiệt huyết ấy ít ai bì kịp. Nhưng ông quan kinh bang tế thế ấy lại có tâm hồn nghệ sĩ: cống hiến hết mình nhưng xong việc, công thành, lại tự thưởng mình được những cuộc vui chơi thanh nhã. Nợ tang bồng là một khi đã trang trải thì vỗ tay reo mà thơ túi rượu bầu, hoặc hẹn với các cao niên ẩn sĩ nào đó tận chốn thâm sơn cùng cốc và thả hồn theo nào địch, nào đàn.

Trong tư cách là một cây bút thực hiện sứ mệnh lịch sử của thể loại hát nói, ca trù, Nguyễn Công Trứ là người đại diện tiêu biểu nhất. Trong tư thế của một con người cá nhân tự do, ông cũng là người thể hiện đặc sắc nhất cái phẩm chất đa tình, thị tài của lớp nhà Nho tài hoa, khí phách nhất của thời đại.

Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, ý thức cá nhân được khẳng định với ba phạm trù: công danh, cái nhân hưởng lạc và cái ta hơn người, cái ta riêng tư, tự hào, tự cho là đủ, tự trào. Chúng tạo cho con người một sự hài hoà, tự tin, phong lưu, tự do đứng trên mọi được mất khen chê. Đó là bước phát triển cao nhất của ý thức cá nhân mang nội dung phong phú, hài hoà trong văn học
Việt Nam .

Gaquay
Gaquay
Admin

Tổng số bài gửi : 34
Join date : 23/09/2011

https://hocvanvanhoc.forumvi.net

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết